Lần ấy, tôi bị bọn mật thám Pháp bắt vào ngày 24 tháng 12 năm 1943 khi đang lĩnh nhiệm vụ Xứ ủy viên Bắc kỳ. Chúng giam tôi tại các nhà giam ở Thái Bình, Ninh Bình, Hà Nam, tra tấn đánh đập hết mọi cách nhưng không moi được một lời. Cuối cùng, khoảng đầu tháng 4 năm 1944, chúng giải tôi về Hà Nội rồi đẩy vào ngục Hỏa Lò với án 20 năm cộng với án 10 năm khổ sai.
Lại một lần nữa tiếng khoá lách cách, tiếng cánh cửa sắt rít lên nghe đầy vẻ hăm dọa cùng những bộ mặt hung hãn, hằm hè của lũ đầu trâu mặt ngựa, đặc biệt là tên chủ ngục A-gốt-ti-ni với cái lưng gù gù mà chúng tôi thường gọi là “Thằng gù”. Khắp người tôi thâm tím, đau đớn, đầu váng, mắt hoa nhưng tinh thần vẫn rất tỉnh táo. Giữa lũ quỷ sứ nhăm nhăm dùi cui cộc, roi da dài… tôi vẫn nghe tiếng các đồng chí mình đang xôn xao: “Kìa Minh “khói”!”, “Minh “khói” vào rồi đấy!” (Minh “khói” là một trong những bí danh của tôi hồi ấy). Tôi đưa mắt nhìn quanh. Bên trong những chấn song sắt nhà giam, các đồng chí bị bắt từ trước ngó ra và báo tin cho nhau. Tôi nhận ra các đồng chí: Nghĩa, Thân, Nguyễn Lam, Đắc, Chương, Kha, Chí, Văn, Hoà, Tuân, Cử, Thiện … Đồng chí Trần Đăng Ninh cũng bị chúng giam ở đây.
Những ánh mắt quen thuộc của các đồng chí cũng tỏ ra thông cảm với tôi, cũng chứa chất một mối căm giận kẻ thù. Các đồng chí đang mong đợi ở tôi những tin tức mới, tình hình bên ngoài bốn bức tường đá. Đúng là “tình hình bên ngoài” đang có nhiều biến chuyển lớn lao mà ở trong tù này không hiểu rõ hết được. Bị bắt sau các đồng chí nên không những tôi biết rõ sự phát triển của đại chiến thế giới lần thứ hai, nắm được Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 8 (họp năm 1941) mà còn được quán triệt Nghị quyết của Thường vụ Trung ương (mới họp hồi tháng 2 năm 1943) với phương hướng hoạt động cụ thể của Đảng trước tình hình mới.
Tôi đã tranh thủ truyền đạt lại những hiểu biết mới mẻ của mình cho các đồng chí. Được biết cục diện chiến tranh ngày càng thay đổi có lợi cho phe Dân chủ với những tin thắng lợi dồn dập của Hồng quân Liên Xô, ai nấy đều vui mừng bật lên những tiếng hoan hô hởi lòng, hởi dạ... Mọi người đặc biệt chú ý tới phần Nghị quyết của hội nghị Thường vụ Trung ương (từ 25 đến 28 tháng 2 năm 1943): “Toàn bộ công tác của Đảng lúc này phải nhằm vào việc chuẩn bị khởi nghĩa, để một khi cơ hội đến, kịp thời đưa quần chúng nhân dân ra chiến đấu”. Mục tiêu giải phóng dân tộc đã thu hút suy nghĩ của mọi người. Vấn đề vượt ngục vốn đã được nung nấu từ lâu nay lại càng trở nên cấp bách, thôi thúc hơn. Chúng tôi cần phải vượt ngục để nhanh chóng trở về với phong trào, với quần chúng trong lúc tình thế đương sôi sục, góp một phần sức mình vào thời cơ đặc biệt này.
Đầu tháng 3 năm 1945.
Một hôm, vào khoảng 9 giờ tối, ở trong buồng giam, tôi bỗng giật mình vì đèn điện phụt tắt kèm theo mấy tiếng nổ lớn. Sau đó là tiếng súng máy, súng trường nổ ran. Lại có tiếng chân người chạy huỳnh huỵch phía ngoài… Nhật, Pháp đánh nhau rồi! Tôi tin chắc như vậy vì Nghị quyết của Thường vụ Trung ương họp tháng 2 năm 1943 đã nhận định: Nhật muốn hất cẳng Pháp để độc quyền chiếm Đông Dương. Những tin tức gần đây càng chứng tỏ hai con chó tranh ăn tất phải cắn nhau. Đa số các đồng chí khác cũng nghĩ như thế. Một lát sau, tên giám ngục người Đức mà chúng tôi quen gọi là "Gioong", tới khu tôi bị giam, cũng bảo: "Nhật đánh Pháp rồi...!". Bước ngoặt của tình hình đây rồi! Nghĩ thế và tôi đoán Nhật sẽ thắng Pháp.
Tiếng súng thưa thớt dần và sau đó các chòi lô cốt xung quanh trại giam đều do lính Nhật gác. Lập tức, ở trong các buồng giam đều có những cuộc trao đổi của các đảng viên Cộng sản để nhận định tình hình và xác định thái độ, phương thức hành động...
Chừng vài tiếng đồng hồ sau, một tên sỹ quan Nhật có một tiểu đội lính Nhật đội mũ sắt, mang súng, lưỡi lê hộ vệ cùng vài tên Việt gian thân Nhật mang theo cờ Nhật vào các khu trại giam. Chúng đi tìm mấy tên tay chân đầu sỏ của chúng và thăm dò thái độ tù chính trị. Tới khu trại dài, tên sỹ quan hỏi:
- Có phải tù chính trị không?
- Phải! - Anh em thản nhiên trả lời.
Nó bảo thông ngôn nói lại: "Bây giờ người Nhật đã đánh bại quân Pháp giúp nước Việt Nam được độc lập rồi, mai sẽ thả các anh ra...". Nó mở các khóa cửa đi vào xem một lượt và hỏi thêm: "Các anh có hoan hô người Nhật không?". Có hai tù chính trị thuộc đảng Đại Việt hưởng ứng, vỗ tay lẹt đẹt. Anh em tù Cộng sản vẫn đứng yên. Cái vỏ thân mật hời hợt bề ngoài của tụi Nhật không thể che nổi cái dã tâm phát xít bên trong, dù cố giấu cũng vẫn thập thò trong ánh mắt gườm gườm của chúng. Anh em thừa biết chúng nó xảo trá, muốn lợi dụng anh em, gây ảnh hưởng chính trị có lợi cho chúng.
Sớm ngày 10 tháng 3, khi ánh ban mai còn mờ mờ sau hàng chấn song cửa xà lim, bắt đầu một ngày mới trong nhà tù thì tôi cũng bắt đầu dần dần nhận thấy rất nhiều sự thay đổi mà trước kia chưa từng có trong Hỏa Lò. Tất cả các quy định, chế độ thường lệ như đi tuần, giám thị gọi tên, điểm số tù v.v... đều không thấy có. Bọn Pháp từ chúa ngục, giám thị tới lính canh, viên chức đều bị giam vào trong một buồng (ngay lối cửa vào buồng giam tôi) cùng với một số Tây, đầm ở nơi khác mới bị bắt đưa đến. Mới chưa được một đêm mà chúng nó mặt cắt không còn hột máu, phờ phạc, hốc hác, đứa cầu kinh, đứa rên rỉ khóc lóc, đến là thảm hại! Các giám thị cai ngục, viên chức người Việt cũng bỗng nhiên mất hết vẻ bình thường hàng ngày. Họ không cười cũng không dám nói to, tránh mặt cả tù lẫn Nhật. Để mua chuộc, lợi dụng tù chính trị, bọn Nhật trong lúc còn chân ướt chân ráo, đã chấp nhận yêu cầu của chúng tôi, không khóa một số cửa, để tù chính trị đi lại thông nhau giữa các trại dài, trại lô cốt, trại D. Riêng buồng giam tôi vẫn bị khóa vì ngay trước cửa ra vào có bọn Tây bị giam. Khu xà lim tử tù giam đồng chí Trần Đăng Ninh rất khó có điều kiện đi lại. Lúc này, bọn Nhật chỉ cắt gác bốn lô cốt ở bốn góc Hỏa Lò, cửa chính và cửa ngăn khu trong với khu ngoài.
Trong khi các anh em ở ba trại khác đi lại tương đối thoải mái thì tôi vẫn phải bó gối trong buồng giam. Nhân cơ hội này mà không mạnh bạo làm thì không được, tôi nghĩ thế và tìm cách tự ra lấy. Tôi cởi quần dài, xoắn hai ống quần cho săn gọn, rồi quấn quanh hai chấn song sắt, sau đó lùa một cái cây chắc vào vặn thít lại như người ta thít dây ga-rô ở vết thương. Cách làm này không cần nhiều sức nhưng rất hiệu nghiệm: hai chấn song sắt bị sức xoắn kéo cong veo, sát lại với nhau như cổ chầy. Kẽ hở còn nhỏ, tôi lại làm như thế ở hai chấn song bên cạnh. Kết quả sau hai lần vặn đã mở được một lối vừa đủ để lách người ra. Thế là tôi ra được với anh em. Nhưng cũng còn gay go, vì dù sao chúng tôi vẫn chỉ loanh quanh ở khu giam tù chính trị, nơi bọn địch để ý nhiều hơn. Tôi vội vàng liên lạc với các đồng chí khác. Không cần trao đổi lâu, chúng tôi cũng nhận rõ rằng: phải khẩn trương tìm cách trốn ngay, trốn thật nhanh. Để lâu, bọn Nhật vững chân, tổ chức chặt chẽ lại thì sẽ khó khăn gấp bội, không những thế lực lượng của ta còn có thể bị thiệt hại nặng nếu quá rụt rè, chậm trễ. Tôi chủ trương: ai có điều kiện trốn được lúc nào cứ trốn và các đồng chí án nặng phải lo sao đi được sớm. Từ trước, mọi người đều đã chuẩn bị sẵn tiền để chi dùng sau khi thoát ngục. Tôi bàn với đồng chí Tuân đem nốt số tiền quỹ chia cho từng người. Sau khi chia tiền cho mọi người, đồng chí Tuân nảy ra một mẹo rất hay. Chả là nếu chỉ cứ ở trong khu giam tù chính trị thì rất khó trốn, đồng chí Tuân nghĩ cách trà trộn sang với tù thường phạm. Nhân việc muộn cơm, nhân danh "Ủy viên Ban sinh hoạt", đồng chí bảo một cai ngục người Việt.
- Cơm nước của chúng tôi mà để chậm như thế là không được. Các anh phải cho vài người chúng tôi ra để giải quyết thẳng với nhà bếp.
Lần đầu tiên, tên này tỏ ra quan tâm đến việc ăn uống của tù và phàn nàn về sự "khiếm khuyết" đó. Hắn nhận lời là đến hai giờ chiều sẽ mở cửa cho một tù nhân ở trong Ban sinh hoạt được tới nhà bếp (nhà bếp thuộc khu giam tù thường phạm). Đồng chí Tuân liền báo tin ấy cho các đồng chí khác và kiếm giấy bút viết mấy chữ liên lạc với đồng chí Trần Đăng Ninh giục đồng chí Ninh tranh thủ ra với chúng tôi để lợi dụng cơ hội cùng trà trộn sang khu thường phạm. Thỉnh thoảng lại có bọn Nhật ở nơi khác tới mở cửa trại giam, xem xét mọi nơi. Nhân khi chúng sơ hở, đồng chí Ninh nhanh nhẹn lẩn ra ngoài rồi đến "phòng thuốc" giả vờ ốm, nằm trùm chăn kín mít, không về nữa.
Trong khi kế hoạch của đồng chí Tuân còn phải chờ đến giờ tên cai ngục đã hứa mới thực hiện được thì tôi đã có cách đi khác. Thấy một tù thường phạm đội cơm đi qua, tôi lấy lời lẽ thuyết phục rồi cho anh ta ít tiền để anh ta nhường tôi đội thùng cơm và đổi quần áo cho tôi. Với bộ quần áo thường phạm và thùng cơm trên đầu, tôi đàng hoàng đi qua mặt tên lính Nhật đứng gác, ra khu thường phạm. Đồng chí Hòa, đồng chí Vân (tức Phan Lang) cũng lọt ra được khu giam tù thường phạm bằng cách tương tự.. Nhìn thấy thùng cơm đặt dưới đất, đồng chí Vân chợt nghĩ ra và nói ngay với đồng chí Hòa: "Mình với cậu lỉnh ra thôi!". Nói rồi, Vân cùng Hòa lẳng lặng khiêng thùng cơm đi ra phía cửa, bỏ cả ăn bữa ấy. Tên lính Nhật ngỡ rằng các đồng chí cũng làm việc đi chia cơm nên cứ để mặc cho đi. Thoát ra đến khu giam thường phạm rồi, các đồng chí tới ngay nhà kho trút bộ quần áo tù chính trị ra, chọn mặc bộ xanh của tù thường phạm vào.
Khoảng hai giờ chiều, bọn cai ngục y hẹn đã cho tù chính trị ra khu nhà bếp. Nói là vài người nhưng các đồng chí ta cứ nối gót nhau ra được khá đông.
Việc làm đó của chúng tôi chỉ cần che mắt bọn Nhật. Trong số cai ngục, viên chức người Việt cũng có kẻ biết nhưng họ làm lơ đi. Đồng chí Tuân còn kể lại rằng đồng chí Xưa đã trốn thoát trong một cơ hội khá đặc biệt. Anh Xưa sắp hết hạn tù nên trước đó đã được để tóc. Anh còn vận động một viên chức người Việt mang giúp vào cho một bộ quần áo Tây bằng lụa màu mỡ gà để chuẩn bị ngày ra tù. Lợi dụng lúc tụi canh cổng đổi gác, đúng vào giờ ra vào của viên chức, Xưa thắng bộ quần áo diện rồi cứ thế đường hoàng đi ra như những viên chức khác. Thế mà thoát! Nghe nói, còn có một số nữ đồng chí của ta cũng thoát được bằng cách thay đổi quần áo đi lẫn vào đám dân thường (bà con tới thăm người thân bị tù) mà địch cũng không biết.
Cũng có người muốn đục tường phá ngục lấy đường ra... nhưng ý kiến này lập tức bị gạt bỏ vì như thế chỉ làm mồi ngon cho những viên đạn trung liên của bọn Nhật ở trên các vọng gác. Chúng tôi khẳng định là phải khẩn trương, mạnh dạn lợi dụng thời cơ nhưng lại không được liều mạng vô ích.
Chiều ngày 11 tháng 3, sau khi lọt được sang khu thường phạm, đồng chí Trần Đăng Ninh cùng vài đồng chí nghiên cứu kế hoạch trốn. Các đồng chí xé chăn ra bện lại và nối với nhau thành một cái dây dài khá chắc. Khoảng 9 giờ tối hôm đó, mọi người được mở khóa, lẻn tới trại dài, công kênh nhau dỡ mái nhà trèo lên, lần tới nơi có khoảng cách ngắn nhất giữa mái nhà và tường bao của Hỏa Lò. Dây bện bằng chăn được buộc vào mái nhà, còn đầu kia thì tung ra móc vào cọc mắc dây điện. Lúc này, nhiều tù thường phạm biết lối đi cũng tranh nhau trèo lên mái nhà, leo ra, làm đồng chí Trần Đăng Ninh đã bám được dây mà không chen nổi. Một trùm thường phạm thấy thế liền ngăn các tù thường phạm lại và bảo: “Chúng mày có ra được thì cũng đến đi ăn cắp thôi, để cho các anh ấy đi trước!”. Sẵn bụng kính phục tù chính trị nên cánh tù thường phạm nghe theo và nhường đồng chí Ninh đi trước. Đồng chí Ninh leo tới nửa dây thì có tiếng lính Nhật ở hai vọng gác gọi nhau xị xộ. Sợ bị lộ, đồng chí Ninh gắng sức leo nhanh, bám được cọc sắt rồi nhẩy xuống đất.
Cũng đêm ấy, một nhóm khác (trong đó đồng chí Vân) đã leo lên được mái nhà phòng thuốc, nơi ngắm sẵn từ ban ngày, đang chuẩn bị vượt sang tường rào thì nghe có tiếng ồn ào, ngói rơi loảng xoảng nên phải tụt xuống. Chả là ở mé đồng chí Ninh, số người còn lại sợ bọn Nhật bắn, không dám sang nữa. Tù thường phạm chen nhau trở về lối cũ làm vỡ ngói rơi xuống đường “rông” (đường bên trong Hoả Lò dùng để bọn lính đi tuần tra quanh các khu trại). Lối ra bằng cách vượt tường ban đêm không dùng được nữa và cả kế hoạch dỡ ngói của đồng chí Tuân cũng không dám thực hiện.
Biết đồng chí Trần Đăng Ninh đã ra được, tôi mừng lắm. Vui vì đồng chí Ninh đã thoát bao nhiêu, tôi càng suy nghĩ bấy nhiêu về bộ phận còn lại. Biết khu giam tù thường phạm nhốn nháo, nhiều người đang tìm cách trốn, tôi thử tính đến nước vận dụng lực lượng này. Lúc tôi đến, một số tù thường phạm đang phá nền xi măng nhà giam, định đào đường hầm ra ngoài. Nền xi măng đã có những vết cuốc chim bổ lỗ chỗ. Cách này lâu và rất khó nhưng vì đang bí, chưa tìm được cách nào hơn nên tôi cũng cứ tìm gặp mấy người cầm đầu, khuyến khích và cho họ ít tiền.
Không tin tưởng vào cách đào nền xi măng, tôi tiếp tục quanh quẩn ngắm nghía khắp mọi chỗ dù đã nhiều lần quan sát. Bỗng tôi chú ý tới một tấm xi măng hình vuông trong sân nhà giam. Tấm xi măng đã hút chặt ánh mắt tôi, thu hết tâm trí tôi, gây lên trong tôi một sự hồi hộp lạ thường. Có thể là lối ra đây rồi! Đó là một chiếc nắp đậy cửa cống ngầm. Mà đường cống ngầm thì nhất định không chỉ loanh quanh trong nhà giam. Tôi lập tức trao đổi với mấy đồng chí. Có đồng chí không tin, nhưng tôi vẫn cho rằng đó là lối ra hay nhất lúc này, dù không dễ dàng gì.
Trưa hôm đó có hai tù nhân mới từ Sơn La về, đợi ngày được tha. Bọn Nhật đưa họ vào giam tạm ở trại J, tiếp giáp với khu xà lim án chém. Lợi dụng lúc nhốn nháo, ba đồng chí Vân, Hoà, Cử cùng lén vào theo. Trông thấy một nắp cống, ba đồng chí bàn với nhau: May ra thoát được bằng lối này. Vân bàn với Hoà và Cử: “Mình gác cho hai cậu nhỏ người chui xuống xem!” Chờ lúc vắng người, họ dùng nẹp cùm bẩy nắp cống lên. Hoà, Cử theo nhau chui xuống cống, Vân cẩn thận đậy nắp cống lại rồi lẩn vào trong nhà, nằm canh. Khoảng nửa giờ sau thì có ám hiệu gõ cộc cộc dưới nắp cống, hơi thối nồng nặc. Cũng lúc ấy, có một số người khác nom thấy, cả tù chính trị lẫn tù thường phạm. Họ đổ xô lại hỏi. Hoà và Cử đều lắc đầu, tỏ vẻ chán nản:
- Gay go lắm, chả ăn thua gì!
- Tắc không đi được!
Sau khi mọi người đã tản đi rồi, Hoà và Cử mới nháy Vân, vui vẻ thì thào:
- Đi được rồi, được rồi!
- Mình đã nhìn thấy cả xe đạp trên đường phố…
Gặp tôi, đồng chí Vân cho biết ngay tình hình đã thăm dò được. Thế là thoát bằng lối cống đã được ba đồng chí chủ động phát hiện. Đúng lối đi đây rồi! Tôi nghĩ vậy và khẩn trương trù tính tiếp kế hoạch cụ thể.. Tôi cho rằng lối này có thể ra được nhiều người nhưng đi đông quá sẽ dễ bị lộ và chắc chắn cũng chỉ có thể giữ được bí mật lúc đầu mà thôi. Tôi nhẩm tính danh sách các đồng chí sẽ đi đợt đầu, trong đó có các đồng chí bị án nặng. Quần áo thường dân cho các đồng chí thì tôi đã chuẩn bị được ít nhiều…
Khoảng 4 giờ chiều, tất cảc các đồng chí được báo đi đợt đầu đã tìm cách đến đủ mặt ở trại J. Nơi đây có tường cao bốn phía, kín đáo nên ít người để ý. Tổng cộng đi đợt này có 29 đồng chí và được chia thành từng tổ ba hoặc bốn người. Phải phân tán nhỏ để đỡ bị thiệt hại nếu địch đánh hơi được, mặt khác cũng để giúp đỡ nhau khi cần thiết. Gặp tôi, nhiều đồng chí sốt ruột hỏi:
- Đi đêm hở anh?
- Chờ lên đèn. - Tôi đáp và nhắc thêm phải bình tĩnh chờ đợi.
Lúc này, chúng tôi vẫn mặc quần áo tù nhưng ai nấy đều có sẵn quần áo thường dân, người đã mặc bên trong, người còn cuộn trong mình, kẻ cất giấu ở dưới ván… Thời gian trôi sao chậm thế! Tôi chỉ lo nếu bây giờ xảy ra việc gì đột biến, không ra được, nhỡ mất thời cơ thì ân hận quá. Cũng may là bọn Nhật còn mải túi bụi lo những việc khác mà chưa ổn định được tổ chức ở nhà tù, nên việc chuẩn bị của chúng tôi lộ liễu thế mà chúng cũng chẳng hề biết. Những cửa chính vẫn khoá chặt một cách “bình yên”. Những tên lính Nhật vẫn lầm lì lăm lăm khẩu súng chẳng khác gì “đười ươi giữ ống”. Bọn cai ngục, nhân viên người Việt thì ru rú một chỗ mong giữ lấy thân; những tù nhân là đảng viên Đại Việt cũng chưa đáng ngại vì bọn Nhật chưa kịp nắm được tay sai của chúng ở trong nhà giam. Trong lúc chờ đợi, tôi kiểm điểm lại kế hoạch, dự kiến thêm những tình huống có thể xảy ra, nghiền ngẫm thêm cách đối phó. Tôi lại tính tới những việc cần làm ngay sau khi về tới cơ quan Xứ ủy…
Gần tối, các tổ ba người đều tranh thủ bàn bạc thêm “Kế hoạch hành quân”. Chả là tôi chủ trương từng tổ hoặc cá nhân khi ra khỏi Hoả Lò có thể đi theo hướng riêng của mình để phân tán, rồi sẽ bắt liên lạc với Đảng sau.
Nền trời mờ dần, mờ dần… Những bóng đèn điện bật sáng, toả ra những vùng ánh sáng vàng nhạt, yếu ớt. Đến lúc rồi! Tôi “hạ lệnh” mở cống và nói đùa với mấy đồng chí bên cạnh: “Sống thì nhớ, chết thì giỗ cái giờ phút này!”. Đi đầu là tổ do tôi trực tiếp chỉ huy. Đồng chí Hoà xuống sục sạo đi trước rồi đến tôi, còn Vân, Tuân đi đoạn hậu. Cống hẹp, chúng tôi phải cúi rạp xuống mới chui lọt vào lòng cống. Các tổ khác cũng lần lượt tụt xuống sau.
Lòng cống tối om. Mùi hôi thối bốc ra từ cái chất nhầy nhớt với đủ loại rác rưởi lẫn phân người, làm ai cũng muốn nôn mửa. Ấy thế mà chẳng người nào bịt mồm, bịt mũi vì còn mải miết chui. Riêng những bộ quần áo “diện” thì được giữ hết sức cẩn thận, người đội trên đầu, người buộc sau gáy, người đeo trên lưng… Tới chỗ hẹp quá, tôi phải nằm thẳng người ra, duỗi dài hai cánh tay về phía trước, dùng sức khuỷu tay, chống ngón chân mà nhích. Nước bùn hôi thối ngập tới cằm. Thỉnh thoảng tôi lại đụng đầu vào chân người trước hoặc chân mình đạp phải người bò sau. Mới được một quãng đã thấy mệt, tiếng thở phì phò vang trong cống. Tôi vừa lắng tai nghe, vừa mải miết bò, bám sát người đằng trước nên chẳng để ý gì đến cái lòng cống bẩn đến mức nào. Trong bụng tôi chỉ còn tính: Sẽ lên cửa cống nào? Ở đó có gì trở ngại không?
Cố gắng chừng 20 phút thì Hoà bò chậm lại rồi ra hiệu cho tôi chờ. Hoà đã tới cửa cống. Đồng chí ngồi dậy và lom khom đứng lên. Nghe tiếng thở mạnh, tôi biết Hoà đang lấy sức làm gì đó. Quả nhiên sau đó, tôi đã thấy được một tia sáng le lói mờ mờ. “Đây rồi!”, Hoà hướng về phía tôi thì thào. Tôi nhích người tiến lên. Một tiếng động hơi mạnh, nắp cống bị nâng cao hẳn. Hoà vịn tay, nhào người lên và nói vọng lại: “Không có ai, lên thôi anh!”. Bóng Hoà đã khuất, tôi ló đầu ra, hai tay đỡ nắp cống. Bỗng một chiếc ôtô ca-mi-ông vun vút chạy tới. Tôi vội thụp xuống, suýt nữa bị biêu đầu vì chiếc nắp cống. Tôi hồi hộp gióng tai nghe ngóng. Chừng đã yên ắng, tôi lại đẩy nắp cống chui lên. Mới chập tối mà đường phố đã vắng teo. Trong lúc “hỗn quân hỗn quan” này, nếu không có việc gì cần thì chẳng ai dại mà đi dạo tối.
Vừa lên khỏi cống, tôi đã nhận ra ngay đó là một cửa cống đằng sau ngục Hỏa Lò, phía vườn hoa Mê Linh. Tôi nhìn thấy chiếc lô cốt lù lù ở góc ngục Hỏa Lò. Không thấy động tĩnh gì, tôi yên trí, bình tĩnh thong thả bước qua đường nhựa sang vườn hoa rồi nhảy xuống một cái hầm tránh máy bay ngay đó. Vân, Tuân cũng đã lên khỏi cống và nối gót theo tôi. May làm sao, trong hầm tránh máy bay lại có chút nước đọng. Chúng tôi nhanh nhẹn vớt nước rửa qua quýt rồi mặc quần áo thường dân vào. Bộ cánh nâu của tôi rất vừa. Tôi quấn miếng vải trắng lên đầu làm khăn, che đi cái đầu tù trọc lốc của mình. Chẳng có thời gian mà ngắm vuốt, đóng bộ xong, chúng tôi nhảy ra khỏi hầm tìm đường đi ngay. Lúc đó có vài người dân đi qua. Có thể họ cho chúng tôi là phu cống nên không để ý, cũng có thể họ thấy chúng tôi đáng nghi nhưng chẳng muốn tìm hiểu làm gì, họ rảo bước đi việc của họ.
Lúc này, tôi có cảm giác rất khó tả. Chỉ vừa mới đây thôi mà nay tôi đã thoát ra khỏi cái nơi ghê tởm ấy. Tôi được tự do rồi! Không những tôi thoát chết, thoát án khổ sai, thoát khỏi cùm kẹp, đánh đập mà lại còn được trở về với phong trào, với đồng bào. Sự việc diễn ra đơn giản quá, nhanh quá, đột ngột quá, tưởng chừng rất khó hiểu làm cho tôi vô cùng xúc động. Rõ ràng là tôi rất bàng hoàng trước niềm vui sướng bất ngờ nên thấy mình như đang lướt bay, lâng lâng trên đối cánh vô hình nào đây chứ không phải là đi bằng đôi chân gầy gò của mình nữa.
Phía cửa cống, một đồng chí ở tổ khác tiếp tục chui lên. Tổ tôi, người sau kẻ trước rảo bước đi về phía Cửa Nam. Chúng tôi cố làm ra vẻ thản nhiên cho dáng đi được bình thường nhưng trong bụng ai cũng bồi hồi, nôn nóng. Nếu có thể được thì chắc không ai phải giục ai, đều cùng mở hết tốc lực co cẳng mà chạy cho nhanh.
Theo hè phố, tôi và Tuân đi trước, Vân, Hoà theo phía sau. Lúc đang chui dưới cống, tôi chẳng coi bẩn thỉu là gì, nhưng bây giờ lại rất ngại cái mùi hôi thối. Người đồng chí nào cũng bốc ra mùi hôi nồng nặc không thể giấu được, khiến cho người đi đường phải bịt mũi lảng xa. Để cho đồng bào khỏi chú ý và bọn chó săn khỏi nghi ngờ, chúng tôi phải tạm đóng vai những người phu đổ thùng vừa ở trong những chuồng tiêu ra, nói với nhau toàn chuyện đổ thùng. Qua ga Hàng Cỏ, chúng tôi theo đường Khâm Thiên đi tới Thái Hà Ấp. Nhìn trước nhìn sau thấy không bị theo dõi, chúng tôi vững dạ, tạt ngang xuống ruộng để về Hà Đông theo đường cánh đồng. Lối này xa và khó đi nhưng dễ lẩn tránh hơn là theo đường nhựa.
Chừng đã khuya, chúng tôi về tới làng Vạn Phúc. Tôi dặn các đồng chí Hoà, Tuân, Vân chờ ở ngoài làng; còn một mình tôi dò dẫm tìm đến nhà anh Tục, một cơ sở liên lạc của Xứ ủy hồi ấy. Ngôi nhà này đã bị phá đi một nửa nên cửa ngõ còn sơ sài. Tôi nhẹ nhàng lách người vào. Lúc đó, anh Tục đi đâu chưa về, chỉ có chị Tục ở nhà. Trong nhà tối om, tôi lần vào, đụng phải giường gây nên tiếng động khiến chị Tục giật mình khẽ kêu lên:
- Ai? Ai đấy?
- Tôi… tôi… Núi đây. -Tôi vội đáp khẽ. (Núi là một tên bí mật nữa của tôi).
Tiếng chị Tục run run:
- Anh là người hay là… ma đấy?
- Núi đây, người thật đây… Tôi mới trốn thoát. - Tôi trả lời rành rọt cho chị rõ.
Có tiếng quẹt diêm và khi đỏ đèn rồi, nom rõ là tôi, chị mừng rõ:
- Trời Phật ơi, thế mà cứ tưởng anh chết rồi!
- Thôi chị đi gọi anh ấy về! - Tôi giục chị Tục.
Chị Tục đi xong, tôi cũng quay ra đón các đồng chí. Thế là chúng tôi thoát hẳn, đã bắt liên lạc được với Đảng.
Ở cơ quan Xứ ủy, việc trước tiên là chúng tôi cấp tốc cử người đi tìm đón những đồng chí cùng ra đêm đó. Mỗi khi nhận được tin đã tìm thấy một người là tôi lại vui mừng vô hạn vì mất đi một người là mất đi một cái vốn vô giá của Đảng. Cho đến chiều hôm sau thì tất cả 29 đồng chí trong danh sách đi đợt đầu đều trót lọt và đã liên lạc được với Đảng. Tôi còn được biết thêm là bằng cửa cống đó và mấy cửa cống khác nữa, rất đông các đồng chí chúng ta đã ra thoát mà không gặp trắc trở gì. Chỉ vài đồng chí bị lạc trong cống, mò mãi ra tận phía ga Hàng Cỏ, nhà Đấu Xảo , gần Nhà thờ Lớn, mới thấy lối lên .
Tổ chức Đảng đã kịp thời tiếp nhận cán bộ và giao công tác ngay. Tình hình rất khẩn trương, có người vừa mới bắt được liên lạc, đã nhận chỉ thị đi công tác ngay. Các đồng chí toả đi khắp nơi, trong đó có một số được cử về Hà Nội...
Nhớ lại lần vượt ngục đó, tôi không quên rằng chính tình thế cách mạng làm rã rời bộ máy thống trị của địch và mở ra con đường thoát an toàn, dễ dàng cho chúng tôi, giúp chúng tôi kịp thời trở về với phong trào.
Chúng tôi rất sung sướng được góp phần nhỏ bé của mình vào cuộc Tổng khởi nghĩa bùng nổ sau đó dăm tháng.
Thiếu tướng Trần Tử Bình kể, Hà Thành Ân ghi
Trích cuốn “Từ Phú Riềng đỏ đến mùa thu Hà Nội”
của Trần Tử Bình, Nxb Lao động, 2006
từ trang 160 đến trang 193.